Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Quy định về “phòng vệ chính đáng” được mô tả tại Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015, còn quy định về “gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội” được mô tả tại Điều 24 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là 02 điều luật giải thích rõ thế nào là phòng vệ chính đang và thế nào là gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội. Còn trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Dưới đây, chúng tôi phân tích cấu thành của Tội Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là người nào từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự.
Chủ thể của tội phạm này có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch nhưng phải trong tình thế phòng vệ chính đáng hoặc bắt giữ người phạm tội.
Khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội quy định trong Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 12 quy định một số tội người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng không có tội phạm theo Điều 126. Do đó, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội theo điều 126 Bộ luật Hình sự là người từ đủ 12 tuổi. Người phạm tội phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi.
Khách thể của tội phạm:
Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội gồm 02 tội là tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt người phạm tội.
Phòng vệ chính đáng và gây thiệt hại trong khi trong khi bắt giữ người phạm tội là 02 trong 07 trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 22 và Điều 24 Bộ luật Hình sự. Có nghĩa là con người có quyền phòng vệ chính đáng và bắt giữ người phạm tội. Tuy nhiên, quyền này được giới hạn ở “mức cần thiết”.
Điều 22 Bộ luật Hình sự quy định “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Theo đó, giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là trường hợp người phòng vệ chính đáng thực hiện hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết gây ra hậu quả chết người. Tội phạm này xâm hại trực tiếp đến tính mạng con người.
Điều 24 Bộ luật Hình sự quy định “gây thiệt hại quá mức cần thiết trong khi bắt giữ người phạm tội” là trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.
Từ đó, ta hiểu giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là trường hợp người có quyền, nghĩa vụ bắt người phạm tội đã sử dụng vũ lực quá mức cần thiết gây hậu quả chết người. Tội phạm này cùng xâm phạm trực tiếp đến tính mạng người phạm tội.
Cả hai tội phạm được nêu trong Điều 126 Bộ luật Hình sự đều xâm phạm trực tiếp đến tính mạng con người. Nói cách khác, cả hai tội phạm đều có khách thể là quyền sống, quyền được Nhà nước bảo hộ về tính mạng của con người.
Mặt chủ quan của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm thực hiện hành vi giết người do lỗi vô ý, có thể là lỗi vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Người phạm tội có động cơ phòng vệ chính đáng hoặc bắt giữ người phạm tội, đây hoàn toàn là động cơ tốt, bảo vệ lợi ích của bản thân, của người khác hoặc của Nhà nước, cơ quan, tổ chức.
Người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hậu quả chết người có thể xảy ra những vẫn tự tin rằng mình có thể khống chế được tình hình hoặc do lỗi cẩu thả, chủ quan cho rằng hậu quả chết người sẽ không xảy ra, hay cũng có trường hợp người phạm tội dù không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng vẫn có ý thức bỏ mặc để hậu quả xảy ra.
Mặt khách quan của tội phạm:
Cả hai tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt người phạm tội đều có chung hành vi giết người. Tuy nhiên, ngay trước khi thực hiện hành vi giết người, người phạm tội đã thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng và sử dụng vũ lực để bắt giữ người phạm tội.
Căn cứ vào Điều 22 Bộ luật Hình sự quy định về chế định phòng vệ chính đáng: “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên”.
Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải thỏa mãn 4 nội dung cơ bản sau đây:
- Hành vi của nạn nhân là hành vi phạm tội hoặc là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại đến quyền hoặc lợi ích chính đáng của cá nhân, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức.
- Hành vi xâm hại của nạn nhân phải đang diễn ra, đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc.
- Người thực hiện hành vi xâm hại các lợi ích kể trên đã chết.
- Hành vi phòng vệ của người phạm tội không tương xứng với hành vi xâm hại của nạn nhân, tức là quá mức cần thiết gây ra cái chết của nạn nhân. Sự tương xứng ở đây dựa vào tính chất, mức độ hành vi của người xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội, Nhà nước, tổ chức.
Các hành vi chống trả ở đây có thể ở dưới dạng hành động (đánh, đấm, lôi kéo,…có sử dụng phương tiện hoặc tay không), có thể dưới dạng không hành động.
Điều 24 Bộ luật Hình sự quy định về gây thiệt hại khi bắt người: “Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm”.
Người thực hiện bắt giữ nếu là chiến sĩ công an nhân dân thì theo Khoản 15 Điều 16 Luật Công an nhân dân năm 2018 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chiến sĩ công an nhân dân: “Sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, vũ lực, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, phương tiện khác để tấn công, truy bắt tội phạm, ngăn chặn người đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật khác và để phòng vệ chính đáng theo quy định của pháp luật”.
Trường hợp người dân thực hiện việc bắt người quả tang hay bắt người đang bị truy nã theo Điều 111 và Điều 112 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, người bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt bằng cách sử dụng vũ lực.
Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc. Giữa hậu quả chết người và hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc hành vi vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội có mối quan hệ nhân quả.
Cái chết của nạn nhân phải xuất phát từ nguyên nhân là hành vi phòng vệ chính đáng hoặc hành vi bắt giữ người phạm tội.
Hình phạt:
- Khung 1: Hình phạt phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với trường hợp giết 01 người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội. Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự, người phạm tội bị xử phạt theo khung này thuộc loại tội ít nguy hiểm.
- Khung 2: Hình phạt phạt tù từ 02 năm đến 05 năm đối với trường hợp giết từ 02 người trở lên do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội. Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự, người phạm tội bị xử phạt theo khung này thuộc loại tội nguy hiểm.
Điều 126. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
1. Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
Liên hệ tư vấn và mời luật sư: 0936683699 - 0983951338