Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Luật sư Hà Thị Khuyên
Người thi hành công vụ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và cũng có thể những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như tuần tra, canh gác...) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội.
Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ được quy định là hành vi làm chết người trong khi thi hành công vụ, do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép. Dưới đây, chúng tôi phân tích cấu thành của Tội Làm chết người trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 127 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Chủ thể của tội phạm:
Là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi theo luật quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015. Họ là những người đang thi hành công vụ nói chung, đó là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, những công dân được huy động làm nhiệm vụ như: tuần tra, canh gác, bảo vệ theo kế hoạch của các cơ quan có thẩm quyền hoặc công dân, vì lợi ích chung của xã hội mà đã sử dụng một loại công cụ nào đó để giúp sức người thi hành công vụ ngăn chặn hoặc đuổi bắt người phạm tội, do đó xâm phạm tính mạng của người khác thì cũng được coi là người thi hành công vụ.
Khách thể của tội phạm:
Làm chết người trong khi thi hành công vụ là hành vi của người trong quá trình thực hiện công vụ của mình đã làm cho người khác bị chết do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép. Tội phạm trực tiếp xâm phạm quyền sống của con người.
Mặt khách quan của tội phạm:
Tội phạm được thể hiện ở hành vi làm chết người do họ dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép.
Dùng vũ lực là dùng sức mạnh vật chất trực tiếp tác động vào thân thể người khác gây nên những hậu quả nhất định. Các hình thức dùng vũ lực như dùng vũ khí hoặc tay chân đấm, đá…Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Nạn nhân là người đang có hành vi xâm phạm đến lợi ích mà người phạm tội có nhiệm vụ bảo vệ.
Việc đánh giá dùng vũ lực ngoài trường hợp pháp luật cho phép phải căn cứ vào các quy định cụ thể về sử dụng vũ khí…hoặc đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể dùng hung khí khác nhau…
Trong thực tế, hành vi dùng vũ lực trong khi thi hành công vụ thường kèm theo việc sử dụng các loại vũ khí. Pháp luật cho phép người thi hành công vụ được sử dụng vũ lực trong một số trường hợp nhất định. Khoản 7 Điều 14 Luật Công an nhân dân quy định: cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân “được sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cần thiết để chủ động tấn công tội phạm và phòng vệ chính đáng theo quy định của pháp luật”. Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ngày 30/6/2011. Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ đã quy định cụ thể trường hợp người công vụ được nổ súng. Hành vi của người thi hành công vụ sử dụng vũ khí ngoài những trường hợp quy định, gây thiệt hại cho tính mạng của người khác sẽ phải chịu trách nhiệm về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ.
Trong trường hợp đang thi hành công vụ, lại coi thường tính mạng của người khác, sử dụng súng vô nguyên tắc bắn chết người dù là người đang thi hành công vụ vẫn phạm tội giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Theo Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017 quy định các trường hợp người thi hành công vụ được phép sử dụng vũ khí như sau:
a) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội khủng bố, giết người, bắt cóc con tin hoặc đang trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ khi vừa thực hiện xong hành vi phạm tội đó;
b) Đối tượng sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển hoặc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ;
c) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc uy hiếp trực tiếp đến an toàn của đối tượng cảnh vệ, công trình quan trọng về an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ theo quy định của pháp luật;
d) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người thi hành công vụ hoặc người khác;
đ) Đối tượng đang trực tiếp thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành công vụ;
e) Được nổ súng vào động vật đang đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác.”
Như vậy, chỉ những trường hợp trên, người thi hành công vụ mới được sử dụng vũ khí, vật liệu và công cụ hỗ trợ. Trước khi sử dụng vũ khí, người thực hiện công vụ phải phát tín hiệu cảnh báo cho những đối tượng kia biết bằng lời nói, hành động hoặc bắn chỉ thiên. Ngoài những trường hợp luật định nêu trên, người thực hiện công vụ sử dụng vũ khí đều trái luật.
Bên cạnh hành vi sử dụng vũ khí, còn có những người không được giao vũ khí và trong khi thi hành công vụ họ cũng không sử dụng vũ khí mà chỉ sử dụng những công cụ cầm tay như gậy gộc, hoặc tay không. Nhưng họ được giao nhiệm vụ hoặc tự nguyện tham gia cùng với người làm nhiệm vụ gây chết người thì được coi là phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ.
Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Động cơ phạm tội là hành động vì lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Hình phạt tội Làm chết người trong khi thi hành công vụ:
- Khung 1: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Khung 2: Quy định hình phạt tù từ 08 năm đến 15 năm trong trường hợp làm chết 02 người trở lên; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.
Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Điều 127. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ
1. Người nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Liên hệ tư vấn và mời luật sư: 0936683699 - 0983951338