Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự, theo đó, người vi phạm nghĩa vụ pháp lý gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất do mình gây ra mà giữa người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và người bị thiệt hại không giao kết hợp đồng hoặc có hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi thực hiện hợp đồng. Vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại Chương XX của Bộ luật Dân sự năm 2015 từ Điều 584 đến Điều 608. Hành vi gây thiệt hại có thể được thực hiện bởi bất kỳ chủ thể nào trong xã hội nhưng không phải chủ thể nào cũng có khả năng thực hiện việc bồi thường, việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường còn phụ thuộc vào năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của từng chủ thể.
Tại Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Theo đó, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại; thiệt hại khác do luật quy định. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều 590 và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
(1) Thiệt hại về vật chất: Thiệt hại về vật chất là những thiệt hại xảy ra trên thực tế có thể tính toán được một cách cụ thể bằng các đơn vị đo lường, đối với thiệt hại về sức khỏe, thiệt hại vật chất được xác định dựa trên những thiệt hại thực tế, mà người bị thiệt hại phải chứng minh, có thể nhận thấy thiệt hại về vật chất bao gồm các thiệt hại sau:
- Chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người thiệt hại, chủ thể có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến sức khỏe của chủ thể khác như hành vi cố ý gây thương tích, gây tai nạn…; buộc người bị thiệt hại phải được cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút, nên bên gây thiệt hại phải bồi thường những khoản chi phí này; thiệt hại về sức khỏe của con người khó có thể xác định được một con số chính xác vì sức khỏe là vốn quý của con người, việc hồi phục, cứu chữa trong nhiều trường hợp chỉ khôi phục một phần sức khỏe ban đầu của người bị thiệt hại, mà không thể hồi phục hoàn toàn được, vì thế việc bồi thường chi phí này chỉ mang tính chất trợ cấp cho nạn nhân và gia đình mà thôi. Chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút có thể là tiền thuốc, tiền viện phí, tiền bồi dưỡng, tiền tàu xe đi viện, tiền dịch vụ chữa bệnh khác.…
- Thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại, trong thời hạn chữa trị, người bị thiệt hại là lao động đáng không thể tiếp tục đi làm công việc mà họ đang làm để kiếm thu nhập, đây là những khoản thu nhập thường xuyên và hợp pháp thực tế của họ; nguyên nhân là do hành vi trái pháp luật của bên vi phạm, nên bên vi phạm có nghĩa vụ thanh toán cả phần thu nhập đương nhiên này, mức bồi thường được xác định dựa trên mức lương thực tế hàng tháng của người bị thiệt hại và số thời gian mà họ không thể đi làm. Thu nhập bị mất là toàn bộ thu nhập mà chủ thể đáng lẽ được hưởng nếu không bị thiệt hại, người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ khoản thu nhập bị mất cho người bị thiệt hại. Còn thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa thu nhập trước khi xảy ra tai nạn và sau khi điều trị, nên người gây thiệt hại chỉ cần bồi thường phần chênh lệch này, trong một số trường hợp thu nhập của người bị thiệt hại không ổn định, đặc biệt với những người làm nghề tự do thì sẽ rất khó để xác định mức thu nhập hàng tháng của người đó, nên phải dựa vào mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại để xác định.
- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, trong thời hạn người bị thiệt hại được điều trị, phục hồi sức khỏe, cần có người ở bên chăm sóc, do người chăm sóc không chỉ phải bỏ thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, mà họ còn mất cả thu nhập đáng có trong thời hạn đó, nên đây cũng là căn cứ để xác định mức thiệt hại mà người vi phạm phải bồi thường. Trường hợp người bị thiệt hại mất khả năng lao động, tức đã áp các biện pháp cần thiết để chữa trị, phục hồi nhưng sức khỏe của họ không còn như trước, họ không còn khả năng làm việc như bị liệt…. Nên cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại như: chi phí thuê xe đi lại, tiền công cho việc thuê người chăm sóc, tiền bồi dưỡng sức khỏe…
- Thiệt hại khác do pháp luật quy định, thực tế hoạt động của cong người rất đa dạng, phong phú mà tại thời điểm hiện tại các nhà làm luật không thể lường trước được, quy định này nhằm tạo ra sự linh hoạt trong việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
(2) Thiệt hại về tinh thần: Người bị thiệt hại về sức khỏe không chỉ phát sinh các thiệt hại trong việc khám, chữa trị, thu nhập, chi phí… mà họ còn bị thiệt hại về tinh thần; đây là loại thiệt hại không thể xác định cụ thể bằng các đơn vị đo lường, nên việc bồi thường mang ý nghĩa bù đắp, xoa dịu nỗi đau tinh thần của người bị thiệt hại và gia đình. Tổn thất về tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu là một khái niệm trừu tượng, không có một quy định nào cụ thể, thiệt hại về tinh thần không phụ thuộc vào việc sức khỏe bị thiệt hại nặng hay nhẹ, mức thiệt hại về vật chất lớn hay nhỏ, mà tùy thuộc vào hành vi tác động vào từng cá nhân bị thiệt hại như: tình trạng gia đình, độ tuổi, nghề nghiệp, mức độ thiệt hại...; khi xác định thiệt hại về tinh thần cần phải xem xét những tác động của hành vi vi phạm đến tinh thần của nạn nhân sau khi được phục hồi sức khỏe; mức thiệt hại về tinh thần do các bên thỏa thuận, nhưng nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không thể thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Tại Điều 7, Nghị Quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định "về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại Điều 590 của Bộ luật Dân sự". Theo đó, chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: Chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh cho người bị thiệt hại; thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đến cơ sở khám chữa bệnh và trở về nơi ở; Chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày khám bệnh, chữa bệnh theo số ngày trong hồ sơ bệnh án; Chi phí phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút là các chi phí cho việc phục hồi, hỗ trợ, thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại.
Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được xác định như sau: Trường hợp người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương, tiền công thì được xác định theo mức tiền lương, tiền công của người bị thiệt hại trong khoảng thời gian tiền lương, tiền công bị mất hoặc bị giảm sút; Trường hợp người bị thiệt hại có thu nhập không ổn định từ tiền lương, tiền công được xác định căn cứ vào mức tiền lương, tiền công trung bình của 03 tháng liền kề trước thời điểm thiệt hại xảy ra. Trường hợp không xác định được 03 tháng lương liền kề trước thời điểm thiệt hại xảy ra thì căn cứ vào thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa phương trong khoảng thời gian thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Nếu không xác định được thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa phương thì thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút được bồi thường là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại nơi người bị thiệt hại cư trú cho 01 ngày bị thiệt hại. Ngày lương tối thiểu vùng được xác định là 01 tháng lương tối thiểu vùng do Nhà nước quy định chia cho 26 ngày.
Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 590 của Bộ luật Dân sự được xác định như sau: Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi người bị thiệt hại điều trị (nếu có); Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết. Trường hợp người bị thiệt hại mất khả năng lao động và phải có người thường xuyên chăm sóc thì chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại nơi người bị thiệt hại cư trú cho 01 ngày chăm sóc người bị thiệt hại.
Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338