Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Theo quy định thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về quy định "Tuổi chịu trách nhiệm hình sự" tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 là sự thể hiện chính sách xử lý hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội, mặt khác để khẳng định trong trường hợp bình thường (không thuộc trường hợp quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015), người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật là người có năng lực trách nhiệm hình sự - là người có đủ điều kiện để có thể có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Theo đó điều 12 Bộ luật Hình sự xác định tuổi 14 là tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi 16 là tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ.
(1) Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội phạm, trừ khi Bộ luật có quy định khác. Những quy định khác này là những quy định tội phạm mà chủ thể của nó đòi hỏi là người “đủ 18 tuổi trở lên”. Ví dụ điều 146 tội dâm ô đối với người từ đủ 16 tuổi quy định chủ thể của tội này là ngừơi đủ 18 tuổi trở lên.
(2) Nngười từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Ở độ tuổi này, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm được quy định tại 28 Điều luật và phải thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, gồm 8 điều thuộc chứng các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; 6 Điều thuộc chương tội xâm phạm sở hữu; 5 Điều thuộc chương tội phạm về ma túy và 9 điều thuộc chương xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng.
Có thể thấy Bộ luật hình sự năm 2015 đã đưa ra những quy định cụ thể hơn và có sự giới hạn hơn phạm vi các tội phạm mà người ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dứi 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự so với quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999. Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do lỗi cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Điểm giống nhau ở quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 và quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 là cả hai Bộ luật đều quy định tuổi tối thiểu phải chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi; cả hai Bộ luật đều giới hạn người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm; người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm. Bên cạnh việc kế thừa, phát triển những quy định còn phù hợp này của Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 bổ sung một số điểm mới trong quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhằm giải quyết những vướng mắc, bất cập đang đặt ra trong thực tiễn xét xử.
Khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 bổ sung vào sau quy định “Người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm” (khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999) quy định “trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác” nhằm tránh “xung đột” giữa quy định của Phần quy định chung với một số quy định của Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự quy định chủ thể của tội phạm là người đủ 18 tuổi trở lên như Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015); Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 2015);… và đây chính là “những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác”.
Khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa quy định “Người đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” (khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999) theo hướng thu hẹp đáng kể số tội danh mà người đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi thực hiện phải chịu trách nhiệm hình sự và liệt kê các tội cụ thể người trong độ tuổi này phải chịu trách nhiệm hình sự (28/314 tội danh được quy định trong Bộ luật Hình sự thuộc 04 nhóm tội phạm: các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm sở hữu; các tội phạm về ma túy; các tội xâm phạm an toàn công cộng). Việc thu hẹp số tội danh và liệt kê các tội cụ thể người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải có trách nhiệm hình sự là sự thay đổi có tính đột phá chính sách hình sự của Nhà nước ta với người phạm tội trong độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Việc thay đổi này vừa có cơ sở thực tiễn, phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, vừa phù hợp với chính sách xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải “bảo đảm lợi ích tốt nhất và chủ yếu là nhằm mục đích giáo dục…” đối với người dưới 18 tuổi đặc biệt là với người đủ 14 đến dưới 16 tuổi của Nhà nước ta.
Căn cứ quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 có thể khẳng định:
* Đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên phạm tội thì phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm: Tội cố ý cũng như tội vô ý; tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng trừ những tội phạm mà Bộ luật Hình sự quy định chủ thể của tội phạm đó là người đủ 18 tuổi trở lên. Tuy nhiên, người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng chính sách hình sự giảm nhẹ theo những quy định của Chương XII Bộ luật Hình sự năm 2015.
* Đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại một trong các điều luật đã được giới hạn tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 02 tội danh được quy định tại Điều 123, Điều 168 Bộ luật Hình sự (khoản 3 Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 và so với quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 cho thấy, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thu hẹp đáng kể số tội danh người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự (28/314 tội danh); phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 02/314 tội danh như đã phân tích trên. Việc quy định này dựa trên cơ sở cân nhắc không chỉ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà còn cân nhắc đến cả tính phổ biến của hành vi phạm tội do người trong độ tuổi này thực hiện trong thời gian qua cũng như dự báo trong thời gian tới.
Chính sách và nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội:
Theo quy định tại Điều 90 và 91 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Bộ luật Hình sự; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật Hình sự.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật Hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp tư pháp:
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật Hình sự trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự;
- Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338