Hợp đồng thuê khoán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê khoán giao tài sản cho bên thuê khoán để khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản thuê khoán và bên thuê khoán có nghĩa vụ trả tiền thuê.
Đối tượng của hợp đồng thuê khoán là tư liệu sản xuất gồm đất đai, rừng, mặt nước chưa khai thác… Đối với hợp đồng cho thuê tài sản thông thường, bên thuê sử dụng, khai thác lợi ích từ tài sản và phải trả tiền cho bên có tài sản cho thuê. Như vậy, đối tượng của hợp đồng thuê tài sản là tài sản cụ thể, vật chất mà con người có thể chiếm hữu trên thực tế. Nhưng, đối với hợp đồng thuê khoán cho phép bên thuê khoán được đầu tư vào đối tượng thuê để sản xuất, kinh doanh, như: thuê đất để xây dựng nhà máy, thuê mặt nước để nuôi trồng thủy hải sản… Có thể thấy, đối tượng của hợp đồng thuê khoán không được bên thuê nắm giữ trực tiếp, sử dụng trực tiếp, mà bên thuê thực hiện đầu tư để khai thác công dụng của tài sản đó.
Tại Điều 485 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thời hạn thuê khoán. Theo đó, thời hạn thuê khoán do các bên thỏa thuận. Trường hợp không có thỏa thuận hoặc có thỏa thuận nhưng không rõ ràng thì thời hạn thuê khoán được xác định theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh phù hợp với tính chất của đối tượng thuê khoán. theo quy định này thì thời hạn thuê khoán được xác định như sau:
Xác định theo thỏa thuận của các bên, cũng như hầu hết các giao dịch dân sự khác, thời hạn thực hiện hợp đồng thuê khoán được xác định dựa trên thỏa thuận của các bên, và được ghi nhận trong nội dung của hợp đồng. Các chủ thể có thể xác định thời hạn theo đơn vị thời gian như: tháng, năm hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của bên thuê, cách xác định thời hạn thuê khoán theo thỏa thuận được ưu tiên áp dụng trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Xác định theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh, trong trường hợp các bên không có thỏa thuận dẫn đến không thể xác định thời hạn thuê khoán rõ ràng, sẽ ảnh hưởng đến nhiều nội dung khác có liên quan như quyền và nghĩa vụ của các bên, tiền thuê… Trong trường hợp này, pháp luật ấn định chu kỳ sản xuất kinh doanh vào để tính thời hạn thực hiện hợp đồng. Theo đó, chu kỳ kinh doanh được xác định theo tính chất của đối tượng thuê khoán và mục đích của bên thuê. Quy định như thế này đảm bảo được lợi ích cho bên thuê khoán và phù hợp với mục đích của hợp đồng.
Tuy nhiên đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh không theo chu kỳ thì pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể về phương pháp tính thời hạn thuê khoán. Trong trường hợp này, pháp luật nên tính thời hạn thuê khoán kể từ thời điểm giao kết họp đồng đến thời điểm một trong hai bên báo trước sẽ chấm dứt họp đồng tới bên kia. Việc báo trước về thời điểm chấm dứt họp đồng phải đảm bảo sự hợp lý, phù hợp và hạn chế thiệt hại cho bên kia.
Điều 485. Thời hạn thuê khoán
Thời hạn thuê khoán do các bên thỏa thuận. Trường hợp không có thỏa thuận hoặc có thỏa thuận nhưng không rõ ràng thì thời hạn thuê khoán được xác định theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh phù hợp với tính chất của đối tượng thuê khoán.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338