Language:
Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ (Điều 231)
27/05/2023
icon-zalo

Luật sư Nguyễn Văn Đồng

Luật sư Hà Thị Khuyên

Khách thể của Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của nhà nước về quản lý tiền, hàng cứu trợ. Đối tượng tác động của tội phạm này là tiền, hàng dùng vào việc cứu trợ. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích cấu thành của Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ quy định tại Điều 231 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, những người khác cũng có thể trở thành chủ thể, nhưng họ chỉ là đồng phạm trong trường hợp vụ án có đồng phạm.

Khách thể của tội phạm:

Khách thể của Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của nhà nước về quản lý tiền, hàng cứu trợ. Đối tượng tác động của tội phạm này là tiền, hàng dùng vào việc cứu trợ.

Mặt chủ quan của tội phạm:

Lỗi của người phạm tội trong tội phạm cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi phân phối tiền, hàng cứu trợ của mình là trái pháp quy định về phân phối hàng cứu trợ, gây ra hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, người phạm tội cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ có thể có nhiều động cơ khác nhau như vì thành tích cá nhân, đơn vị mình hoặc vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.

Mặt khách quan của tội phạm:

Người phạm Tội cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là làm trái quy định về phân phối, nhưng với nhiều phương thức khác nhau, cụ thể:

(1) Không phân phối hoặc phân phối không đúng đối tượng (người mà theo quy định được phân phối nhưng không được phân phối, người mà theo quy định không được phân phối lại được phân phối);

(2) Phân phối không đúng số tiền hoặc số hàng cứu trợ (phân phối thiếu hoặc thừa số tiền hoặc hàng cứu trợ.

Thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện là lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm trái quy định của nhà nước về phân phối tiền, hàng cứu trợ.

Hành vi làm trái quy định của Nhà nước về phân phối tiền, hàng cứu trợ bị coi là tội phạm nếu gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng. Ví dụ: người phạm tội đã phân phối tiền, hàng cứu trợ cho một số hộ gia đình không thuộc diện phải cứu trợ dẫn đến thất thoát số tiền cứu trợ là 200.000.000 đồng không thể thu hồi được.

Như vậy, có thể thấy là dấu hiệu hậu quả của tội phạm “gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng” được quy định tại cấu thành tội phạm cơ bản đã thể hiện rõ tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ là tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất.

Hiện nay khi quy định về dấu hiệu định tội của Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ đã quy định rõ ràng hơn về dấu hiệu hậu quả. Điều luật mô tả rõ dấu hiệu hậu quả của tội phạm đó là “gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng”.

Hình phạt:

- Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.

- Khung 2: Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 231. Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ 300.000.000 đồng trở lên;

d) Gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338