Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Khách thể của Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy là chế độ quản lý của Nhà nước về việc sử dụng chất ma tuý vào các mục đích chữa bệnh và vì vậy, quan hệ xã hội bị xâm phạm còn bao gồm cả tính mạng, sức khoẻ, trật tự an toàn xã hội. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích cấu thành của Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 258 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Khách thể của tội phạm:
Khách thể của Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy là chế độ quản lý của Nhà nước về việc sử dụng chất ma tuý vào các mục đích chữa bệnh và vì vậy, quan hệ xã hội bị xâm phạm còn bao gồm cả tính mạng, sức khoẻ, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là chế độ quản lý về việc sử dụng chất ma tuý. Đối tượng tác động của tội phạm này chính là người sử dụng ma tuý, nếu không có người sử dụng chất ma tuý thì không thể có người phạm tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý. Tuy nhiên, người sử dụng chất ma tuý lại không phải là người bị hại mà ngược lại trong một số trường hợp nếu thoả mãn các dấu hiệu của tội sử dụng trái phép chất ma tuý thì họ còn là người phạm tội.
Mặt chủ quan của tội phạm:
Người phạm tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy thực hiện hành vi phạm tội của mình do lỗi cố ý trực tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy nhưng vẫn thực hiện. Mục đích của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc, tức là người phạm tội mong muốn người khác sử dung ma túy trái phép với nhiều động cơ khác nhau có thể vì.
Mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi rủ rê, dụ dỗ, xúi giục hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy.
Khi xác định hành vi lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý cần phân biệt với tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý mà người phạm tội cũng có hành vi lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý.
Hành vi lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý trong tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý cũng dùng những thủ đoạn mua chuộc, rủ rê, dụ dỗ, xúi dục người khác để họ sử dụng ma tuý, chỉ khác nhau ở chỗ:
Thứ nhất, người phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý ngoài hành vi lôi kéo người sử dụng trái phép chất ma tuý còn có hành vi đưa chất ma tuý vào cơ thể của người sử dụng ma tuý hoặc tìm kiếm người sử dụng trái phép chất ma tuý cho người tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý để người tổ chức đưa chất ma tuý vào cơ thể của người sử dụng trái phép chất ma tuý.
Thứ hai, người phạm tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý chỉ có hành vi lôi kéo, còn việc đưa chất ma tuý vào cơ thể của người bị cưỡng bức, bị lôi kéo là do tự người sử dụng ma tuý thực hiện.
Hậu quả của hành vi lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý là những thiệt hại cho xã hội, trong đó trực tiếp gây ra những thiệt hại về trật tự an toàn xã hội, tính mạng, sức khoẻ của chính người sử dụng trái phép chất ma tuý. Tuy nhiên, hậu quả của tội phạm này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
Hình phạt:
- Khoản 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Khoản 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Khoản 3: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
- Khoản 4: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
- Khoản 5 - Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
Điều 258. Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy
1. Người nào rủ rê, dụ dỗ, xúi giục hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Vì động cơ đê hèn hoặc vì tư lợi;
d) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi;
đ) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
e) Đối với 02 người trở lên;
g) Đối với người đang cai nghiện;
h) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
i) Gây bệnh nguy hiểm cho người khác;
k) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây chết người;
b) Gây bệnh nguy hiểm cho 02 người trở lên;
c) Đối với người dưới 13 tuổi.
4. Phạm tội trong trường hợp gây chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338