Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản. Hợp đồng hợp tác ra đời trên cơ sở thỏa thuận của các bên.
Bản chất của hợp đồng hợp tác là sự liên kết của các thành viên hợp tác cùng thực hiện một công việc. Để thực hiện công việc này, mỗi thành viên có thể thỏa thuận đóng góp một phần tài sản và cùng tạo lập khối tài sản chung theo phần của các thành viên. Tài sản đóng góp có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản. Giống như các hợp đồng dân sự khác, hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên tham gia. Các bên thỏa thuận nội dung cơ bản trong hợp đồng, quy định đối tượng, mục đích cũng như quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Điểm đặc trưng trong hợp đồng hợp tác là quyền và nghĩa vụ của các bên không đối lập nhau. Các chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác thường có quyền, nghĩa vụ như nhau.
Tại Điều 508 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Theo đó, trường hợp các thành viên hợp tác cử người đại diện thì người này là người đại diện trong xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Trường hợp các thành viên hợp tác không cử ra người đại diện thì các thành viên hợp tác phải cùng tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Giao dịch dân sự do chủ thể quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này xác lập, thực hiện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của tất cả thành viên hợp tác.
Xác lập, thực hiện thông qua người đại diện, nhóm hợp tác chỉ đơn thuần là sự liên kết, hợp tác cùng nhau thực hiện công việc, chứ không phải là một tổ chức kinh tế và không có tư cách pháp nhân, để thuận tiện hơn khi tham gia vào các giao dịch dân sự các thành viên có thể cử một người đại diện. Để đảm bảo tính pháp lý cũng như đảm bảo người đại diện thực hiện công việc đại diện đúng thẩm quyền, việc ủy quyền đại diện có thể được lập thành văn bản. Hoặc các thành viên cũng có thể biểu quyết chọn một người đại diện theo quy định pháp luật. Khi đã có người đại diện thì người đại diện sẽ xác lập, thực hiện giao dịch. Việc xác lập thực hiện giao dịch thông qua người đại diện sẽ thuận tiện hơn, công việc được tiến hành nhanh hơn.
Xác lập giao dịch thông qua toàn bộ các thành viên hợp tác, pháp luật không bắt buộc nhóm hợp tác phải cử người đại diện. Việc cử người đại diện là quyền của mỗi tổ hợp tác, do đó, tổ hợp tác có thể có đại diện hoặc không. Trong trường hợp không có đại diện thì việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải thông qua tất cả các thành viên hợp tác. Mối thành viên với tư cách là một bên trong giao dịch, cùng có các quyền và nghĩa vụ như nhau trong việc xác lập, thực hiện giao dịch. Việc đòi hỏi phải thông qua toàn bộ các thành viên hợp tác khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự là cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên. Mỗi bên có thể có phần vốn góp ít hoặc nhiều nhưng họ đều có chung lợi ích khi tham gia giao kết hợp đồng, việc định đoạt bất kỳ vấn đề nào mà không có đầy đủ sự nhất trí của tất cả các thành viên là đang xâm phạm đến lợi ích của họ. Điều đó sẽ dẫn đến tranh chấp sau này.
Giao dịch do người đại diện theo ủy quyền hoặc do tất cả các thành viên xác lập làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của tất cả các thành viên hợp tác. Bởi trong hợp đồng hợp tác, quyền và nghĩa vụ của các thành viên là như nhau. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự làm phát sinh quyền và nghĩa vụ nhất định với tổ hợp tác, trong đó các thành viên phải cùng nhau thực hiện nghĩa vụ đó và cùng nhau hưởng lợi ích, đồng thời cùng nhau chịu trách nhiệm dân sự nếu xâm phạm đến lợi ích của bên kia. Đây chính là bản chất của hợp đồng hợp tác.
Từ quy định trên có thể thấy nhóm các thành viên hợp tác không có tư cách pháp nhân, không hình thành nên một tổ chức kinh tế, vì thế khi tham gia vào các giao dịch thì các thành viên hợp tác có thể cử người đại diện. Việc cử người đại diện theo ủy quyền có thể lập thành văn bản hoặc có thể biểu quyết theo quy định của pháp luật về đại diện. Trong trường hợp có người đại diện theo ủy quyền thì khi xác lập giao dịch, các thành viên hợp tác thực hiện thông qua người đại diện theo ủy quyền của mình. Giao dịch được xác lập bởi người đại diện theo ủy quyền làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ đối với các thành viên hợp tác. Trong trường hợp các thành viên hợp tác không có người đại diện thì giao dịch phải được xác lập với tất cả thành viên. Giao dịch sau khi được xác lập làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các thành viên hợp tác.
Điều 508. Xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
1. Trường hợp các thành viên hợp tác cử người đại diện thì người này là người đại diện trong xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
2. Trường hợp các thành viên hợp tác không cử ra người đại diện thì các thành viên hợp tác phải cùng tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Giao dịch dân sự do chủ thể quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này xác lập, thực hiện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của tất cả thành viên hợp tác.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338