Theo quy định của pháp luật, người thừa kế hoặc người quản lý di sản có có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản trong phạm vi di sản do người chết để lại. Tuy nhiên, trường hợp các bên có thỏa thuận khác, thì người thừa kế hoặc người quản lý di sản có thể dùng tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ của người chết nếu di sản của người chết không đủ để thực hiện nghĩa vụ.
Tại Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Theo đó, những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Khoản 1 Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định trách nhiệm của người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại và chỉ áp dụng với người hưởng di sản thừa kế. Nếu người thừa kế đã từ chối quyền hưởng di sản thì họ không phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, quy định này cần được hiểu là người hưởng thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại không phải với tư cách là chủ thể mới bước vào quan hệ nghĩa vụ, họ không thay thế vị trí chủ thể; họ thực hiện nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của người chết để lại, hay nói cách khác, họ phải trả nợ chỉ vì họ tiếp nhận tài sản có của người chết để lại (nợ của người chết không phải là nợ của người hưởng di sản). Sau khi thanh toán toàn bộ nghĩa vụ của người chết để lại và những chi phí liên quan đến di sản thừa kế, nếu tài sản không còn (nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác bằng hoặc lớn hơn khối tài sản mà người chết để lại) thì khi đó không còn tài sản để chia thừa kế và như vậy thì không có quan hệ nhận di sản thừa kế.
Theo quy định tại Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người thừa kế có quyền nhận hoặc từ chối tiếp nhận di sản. Nếu nhận di sản thì phải thực hiện việc trả nợ thay cho người để lại di sản; nếu từ chối nhận di sản cũng có nghĩa từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết, họ không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết, vì không phải là món nợ của bản thân họ; điều này cho thấy người thừa kế không buộc phải nhận di sản để rồi phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết cho chủ nợ, nếu quan niệm nghĩa vụ tài sản là di sản thừa kế thì trong mọi trường hợp chủ nợ đều có quyền yêu cầu người thừa kế thực hiện việc trả nợ.
Trong trường hợp di sản chưa được chia theo quy định tại khoản 2 Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015 có nghĩa là đang trong trạng thái là một khối di sản mà chưa xác định phần quyền của từng người thừa kế, thì việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của người thừa kế sẽ do những người thừa kế thỏa thuận trong phạm vi di sản mà người chết để lại và được tất cả những người người hưởng di sản thực hiện.
Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong trường hợp di sản đã chia theo quy định tại khoản 2 Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu người chết có để lại nghĩa vụ tài sản nhưng trong di chúc không nói rõ ai phải thực hiện nghĩa vụ đó thì mỗi người thừa kế chỉ phải thực hiện một phần nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần di sản mà người đó được hưởng trên toàn bộ khối di sản; nên trong trường hợp này, nếu di sản chưa chia thì sẽ dùng di sản để thực hiện nghĩa vụ. Phần di sản còn lại sẽ được chia cho những người thừa kế theo phần mà họ được hưởng đã được xác định trong di chúc; nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với phần tài sản mà họ đã được nhận. Nếu người để lại di sản đã giao cho người thừa kế nào đó thực hiện toàn bộ nghĩa vụ tài sản thì người thừa kế đó phải thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi số di sản mà họ được nhận. Neu nghĩa vụ tài sản lớn hơn số di sản được nhận thì phần nghĩa vụ vượt quá này sẽ do những người thừa kế khác thực hiện tương ứng với phần di sản họ được hưởng.
Nếu người thừa kế là tổ chức thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân quy định tại khoản 4 Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định này thể hiện sự bình đẳng của các chủ thể trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật về thừa kế. Người thừa kế là cá nhân, pháp nhân, các cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác đều là người có quyền được hưởng di sản thừa kế của người chết để lại thì đồng thời với quyền này là phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, kể cả Nhà nước; những chủ thể này cũng chỉ thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết trong phạm vi di sản mà họ được hưởng theo di chúc. Tại khoản 4 Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “trường hợp người hưởng thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc” đã khắc phục được thực trạng thiếu toàn diện khi quy định về các chủ thể được hưởng di sản thừa kế với tư cách là người thừa kế của người chết.
Theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 về người thừa kế theo pháp luật thì hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Căn cứ vào quy định của Điều 614, Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi tài sản mình đã nhận trong khối di sản của người chết để lại. Các chủ thể theo quy định pháp luật nêu trên phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ do người chết để lại trong phạm vi tài sản do người chết để lại. Thứ tự ưu tiên thanh toán được quy định tạ Điều 658 Bộ luật Dân sự năm 2015, các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau:
- Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;
- Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
- Chi phí cho việc bảo quản di sản;
- Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;
- Tiền công lao động;
- Tiền bồi thường thiệt hại;
- Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước;
- Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân;
- Tiền phạt;
- Các chi phí khác.
Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338