Language:
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 267)
30/06/2023
icon-zalo

Luật sư Nguyễn Văn Đồng

Luật sư Hà Thị Khuyên

Khách thể của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt là trật tự an toàn giao thông đường sắt. Đối tượng tác động của tội phạm là phương tiện giao thông đường sắt. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích cấu thành của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt quy định tại Điều 267 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Chủ thể của tội phạm:

Bên cạnh những dấu hiệu về chủ thể chung của tội phạm - là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi theo luật định, còn đòi hỏi có dấu hiệu chủ thể đặc biệt là những người chỉ huy các phương tiện giao thông đường sắt: Trưởng tàu, trưởng ga, gác ghi, dẫn đường... Tội phạm có thể được thực hiện bởi người trực tiếp điều khiển phương tiện giao thông vận tải đường sắt: những người trực tiếp thực hiện các chức năng lái phụ, lái chính trên các phương tiện giao thông đường sắt.

Khách thể của tội phạm:

Khách thể của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt là trật tự an toàn giao thông đường sắt. Đối tượng tác động của tội phạm là phương tiện giao thông đường sắt.

Mặt chủ quan của tội phạm:

Người vi phạm Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt thực hiện hành vi khách quan với lỗi vô ý, có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả. Trong đó, Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả  nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Vô ý vì cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Mặt khách quan của tội phạm:

Mặt khách quan của tội phạm là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường sắt. Hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường sắt là hành vi của người chỉ huy, người điều khiển phương tiện giao thông đường sắt đã không làm hoặc làm không đúng quy định về an toàn giao thông đuồng sắt.

Đối với hành vi chỉ huy phương tiện giao thông đường sắt, khi xác định hành vi vi phạm chủ yếu căn cứ vào các quy định về việc chỉ huy cho đoàn tàu chở khách, chở hàng hoặc đầu máy, toa xe và các thiết bị chuyên dùng hoạt động trên đường sắt ra vào ga qua các đường giao cắt với đường bộ.

Đối với hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường sắt, khi xác định hành vi vi phạm chủ yếu căn cứ vào các quy định về điều khiển đầu máy, toa xe và các thiết bị chuyên dùng hoạt động trên đường sắt.

Luật Đường sắt quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động đường sắt, trong đó người chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt không được thực hiện một số hành vi như sau: (1) Làm sai lệch công trình, hệ thống báo hiệu trên đường sắt; làm che lấp hoặc làm sai lạc tín hiệu giao thông đường sắt; (2) Nối vào tàu khách các toa xe vận tải động vật, hàng hoá có mùi hôi thối, chất dễ cháy, chất dễ nổ, chất độc hại và hàng nguy hiểm khác; (3) Điều khiển tàu chạy quá tốc độ quy định; (4) Nhân viên đường sắt trực tiếp phục vụ chạy tàu trong khi làm nhiệm vụ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn hoặc có chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng.

Ngoài ra, người chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt phải đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn đối với chức danh nhân viên đường sắt trực tiếp phục vụ chạy tàu; nội dung, chương trình đào tạo chức danh nhân viên đường sắt trực tiếp phục vụ chạy tàu; điều kiện, nội dung, quy trình sát hạch và cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép lái tàu trên đường sắt do Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải ban hành.

Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm, người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp hậu quả nghiêm trọng xảy ra:

- Làm chết người;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

- Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng trở lên.

Khi tham gia giao thông, tai nạn là điều khó tránh khỏi, nếu hậu quả của tội phạm chưa nghiêm trọng theo quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự, người phạm tội tuy không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng vẫn phải chịu xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

Hình phạt:

- Khoản 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

- Khoản 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

- Khoản 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

- Khoản 4: Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

- Khoản 5 - Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 267. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt

1. Người nào chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường sắt gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép, bằng hoặc chứng chỉ chuyên môn tương ứng với nhiệm vụ được giao;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người chỉ huy hoặc người có thẩm quyền điều khiển, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông;

đ) Làm chết 02 người;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338