Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng xâm phạm chế độ quản lý Nhà nước đối với việc quản lí và sử dụng vốn đầu tư công. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích cấu thành của Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng có thể là người từ đủ 16 tuổi và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đây là tội đòi hỏi dấu hiệu chủ thể đặc biệt, đó là người có chức vụ, quyền hạn có thẩm quyền nhất định trong quản lí, sử dụng vốn đầu tư công.
Khách thể của tội phạm:
Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng xâm phạm chế độ quản lý Nhà nước đối với việc quản lí và sử dụng vốn đầu tư công.
Đối tượng tác động của tội phạm là vốn đầu tư công. Vốn đầu tư công gồm: Vốn ngân sách nhà nước, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư
Mặt chủ quan của tội phạm:
Người thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Tức là người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là hành vi không được phép nhưng vẫn muốn thực hiện hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc dù không mong muốn nhưng vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ và mục đích không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Thông thường người phạm tội này vì vụ lợi.
Mặt khách quan của tội phạm
Người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi vi phạm quy định của nhà nước về quản lí, sử dụng vốn đầu tư công. Hành vi được coi là phạm tội nếu có thể là một trong các hành vi sau:
(1) Vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư. Ví dụ: Người phạm tội có hành vi quyết định chủ trương đầu tư không phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của địa phương hoặc không đúng thẩm quyền hoặc không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật;
(2) Vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư. Ví dụ: người phạm tội khi lập chủ trương đầu tư đã có hành vi cung cấp thông tin sai lệch trong hồ sơ, tài liệu liên quan đến chủ trương đầu tư dự án;
(3) Vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án. Ví dụ: đầu tư chương trình, dự án khi chưa được cấp có thẩm quyền quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư hoặc không đúng với chủ trương đầu tư đã được cấp có thẩm quyền quyết định phê duyệt hoặc quyết định điều chỉnh tổng vốn đầu tư của chương trình, tổng mức đầu tư của dự án trái với quy định của pháp luật về đầu tư công;
(4) Vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án. Ví dụ: thông đồng với tổ chức tư vấn dẫn tới quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư chương trình, dự án gây thất thoát, lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước, tài nguyên của Quốc gia.
Hành vi vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công bị coi là tội phạm nếu gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc tuy gây thiệt hại dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 224 của Bộ luật Hình sự năm 2015 - Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Người thực hiện hành vi khách quan chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi hậu quả gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Nếu hậu quả xảy ra thấp hơn mức quy định trên, người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng phải chịu xử phạt vi phạm hành chính theo về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư. Điều luật cũng lọai trừ trường hợp quy định tại Điều 224 Bộ luật Hình sự quy định về tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng. Nếu người phạm tội lợi dụng chức vụ vi phạm quy định về đầu tư liên quan đến công trình xây dựng thì bị xử lý hình sự theo tội phạm quy định tại Điều 224, còn hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn vi phạm quy định về vốn đầu tư trong các lĩnh vực khác thì xét xử theo tội phạm quy định tại Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Lưu ý:
Phân tích sâu về quy định tội phạm tại Điều 220 Bộ luật Hình sự năm năm 2015 cho thấy quy định về tội danh này còn có sai sót về kĩ thuật. Tội danh (tên tội) được quy định tại Điều 220 thể hiện đây là tội phạm có cấu thành vật chất vì có cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng”. Với các quy định như vậy, thì về kỹ thuật lập pháp, khi xây dựng các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản, đáng lẽ nhà làm luật phải thể hiện được đây là tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm - đó là “hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu tên tội với dấu hiệu định tội thì sẽ nhận thấy có sự mâu thuẫn. Nhà làm luật quy định về dấu hiệu định tội của tội này đã đưa ra 02 trường hợp: Một là, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; Hai là, tuy gây thiệt hại dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Vì vậy, điều này có nghĩa chỉ có trường hợp gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng mới được xác định là cấu thành tội phạm vật chất vì có gây ra hậu quả nghiêm trọng là “gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng”.
Trường hợp còn lại thì không phải là cấu thành tội phạm vật chất; trường hợp này không thể coi là “gây hậu quả nghiêm trọng” như tên tội đã mô tả, vì hậu quả ở dưới “ngưỡng” 100.000.000 đồng và trường hợp này sở dĩ bị coi là tội phạm bởi vì có thỏa mãn kèm theo đặc điểm xấu về nhân thân - “đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”. Ví dụ: người phạm tội tuy gây thiệt hại tài sản là 10 triệu đồng nhưng trước đó đã bị xử lý kỉ luật về hành vi này mà còn vi phạm thì vẫn bị coi là phạm tội này chứ không phải là người đó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, với việc gây ra thiệt hại là 10 triệu đồng thì không thể coi là thiệt hại nghiêm trọng được. Như vậy, có thể thấy là quy định như trên của nhà làm luật đã dẫn đến sự mâu thuẫn giữa tội danh với dấu hiệu pháp lí của cấu thành tội phạm cơ bản. Điều này thể hiện sự chưa chuẩn xác về mặt khoa học lập pháp của Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Hình phạt:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 224 của Bộ luật này, thuộc các trường hợp vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư; vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư; vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án; vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 12 năm thuộc các trường hợp phạm tội vì vụ lợi; Có tổ chức; Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
- Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 20 năm thuộc trường hợp phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Điều 220. Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 224 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư;
b) Vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư;
c) Vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án;
d) Vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:
a) Vì vụ lợi;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338