Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Vô ý làm chết người được hiểu là hành vi của một người làm cho người khác bị chết với lỗi vô ý. Có nghĩa là người thực hiện hành vi gây hậu quả chết người do không thấy trước được khả năng gây ra hậu quả chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước được, hoặc tuy biết hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Dưới đây, chúng tôi phân tích cấu thành của Tội Vô ý làm chết người quy định tại Điều 128 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Chủ thể của tội phạm:
Tội phạm quy định tại Điều 128 Bộ luật Hình sự năm 2015 được thực hiện bởi bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.
(1) Tội giết người được thực hiện bởi bất kỳ người nào. Đó có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay người không quốc tịch; (2) Theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi loại tội. Khoản 2 Điều 12 quy định một số tội mà người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng không có tội vô ý làm chết người tại Điều 128. Như vậy, người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội vô ý làm chết người; (3) Người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tức là người đó phải có cả năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Nếu người đó phạm tội trong trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực hình sự thì có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự.
Khách thể tội phạm:
Hành vi ở đây là làm chết người. Tức là quyền được sống, tính tính mạng của con người đã bị xâm phạm trái phép. Do đó, khách thể của tội vô ý làm chết người là quyền được sống, quyền được nhà nước bảo hộ về tính mạng của con người.
Mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi phạm tội thuộc mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành động do cẩu thả hoặc quá tự tin mà gây ra cái chết cho nạn nhân. Hành vi khách quan tương tự như hành vi thực hiện tội phạm giết người.
Hành vi phạm tội tại Điều 128 Bộ luật Hình sự năm 2015 có thể hành động hoặc không hành động. Các phương tiện như súng, dao, gậy, tay chân, thuốc độc… Hành vi tước bỏ quyền sống của người khác thường được thực hiện bằng các phương thức như bắn, chém, đâm, treo cổ, bóp cổ, đầu độc, đấm đá… Ví dụ, người đi săn tưởng người là thú nên đã bắn nhầm làm chết người.
Trường hợp không hành động ít gặp nhưng vẫn có thể xảy ra. Ví dụ, bác sĩ vì quá chủ quan khi cấp cứu nên đã khiến bệnh nhân tử vong.
Hậu quả chết người là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Giữa hành vi vô ý của người phạm tội và hậu quả chết là mối quan hệ nhân quả. Nguyên nhân cái chết của phạm nhân là do hành vi vô ý của người phạm tội.
Đây là cấu thành tội phạm vật chất, có nghĩa là phải có hậu quả là chết người xảy ra thì mới có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người. Hậu quả chết người chưa xảy ra thì không đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vô ý. Ở đây phải có mối liên hệ ràng buộc giữa hành vi vô ý và hậu quả chết người một cách biện chứng. Hành vi là nguyên nhân gây ra hậu quả và hành vi phải có trước hậu quả làm chết người xảy ra trên thực tế.
Về phía nạn nhân, nạn nhân của tội vô ý làm chết người có thể là bất cứ người nào.Hậu quả của hành vi là nạn nhân chết xuất phát từ hành vi vô ý của người phạm tội gây ra. Ở đây, nạn nhân có thể là người quen thuộc với người thực hiện tội phạm, thậm chí là người cùng tham gia vào hành vi với người thực hiện tội phạm nhưng vì sự vô ý hoặc quá tự tin của người phạm tội mà bản thân họ trở thành nạn nhân. Nạn nhân cũng có thể là một người hoàn toàn xa lạ, nhưng bị tác động bởi hành vi vô ý dẫn đến việc thiệt mạng.
Mặt chủ quan của tội phạm:
Mặt chủ quan là yếu tố đặc biệt phân biệt giữa tội vô ý làm chết người với tội giết người.
Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi vô ý. Theo Điều 11 Bộ luật Hình sự, vô ý ở đây gồm vô ý do cẩu thả và vô ý do quá tự tin.
Vô ý do cẩu thả là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ vào độ tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn hóa, tay nghề... Như vậy, vô ý do cẩu thả làm chết người là trường hợp người phạm tội vì cẩu thả nên đã không nhìn thấy trước hậu quả chết người mặc dù pháp luật yêu cầu họ phải thấy trước hậu quả đó.
Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra. Như vậy, có thể hiểu vô ý làm chết người do quá tự tin là trường hợp người phạm tội hoàn toàn thấy trước được hậu quả chết người nhưng do chủ quan, quá tự tin cho rằng hậu quả không xảy ra nên vẫn thực hiện hành vi đó, kết quả hậu quả chết người vẫn xảy ra.
Hình phạt của tội Vô ý làm chết người:
- Khung 1. Quy định trường hợp làm chết một người thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Khung 2. Quy định nếu làm chết từ 02 người trở lên thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Lưu ý, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hành vi vô ý làm chết người trong một số lĩnh vực hành chính thì không phạm tội vô ý làm chết người mà phạm những tội riêng như: tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 260); Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 267); tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay (Điều 277); tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người (Điều 295)…
Điều 128. Tội vô ý làm chết người
1. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Liên hệ tư vấn và mời luật sư: 0936683699 - 0983951338