Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về quy định "Chuẩn bị phạm tội" tại Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015.
So với quy định chuẩn bị phạm tội tại Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 1999 cho thấy quy định chuẩn bị phạm tội tại Điều 14 Bọ luật Hình sự năm 2015 có ba điểm mới là: (1) Bộ luật bổ sung hành vi “thành lập, tham gia nhóm tội phạm” vào định nghĩa khái niệm chuẩn bị phạm tội; (2) Bộ luật giới hạn và quy định hành vi chuẩn bị phạm những tội cụ thể phải chịu trách nhiệm hình sự; (3) Bộ luật cũng giới hạn người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm một số tội cụ thể 02 tội.
Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì chuẩn bị phạm tội chịu trách nhiệm hình sự đối với những tội sau: Tội phản bội Tổ quốc; Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; Tội gián điệp; Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; Tội bạo loạn; Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội; Tội phá hoại chính sách đoàn kết; Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Tội phá rối an ninh; Tội chống phá cơ sở giam giữ; Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; Tội giết người (áp dụng đối với cả người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Tội cướp tài sản (áp dụng đối với cả người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội); Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả; Tội khủng bố; Tội tài trợ khủng bố; Tội bắt cóc con tin; Tội cướp biển; Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; Tội rửa tiền.
Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn của việc thực hiện tội phạm, trong đó người phạm tội có những hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm, nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm. Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, chỉ từ lúc ý định phạm tội được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội (tức là chuẩn bị phạm tội) nhằm thực hiện sự xâm hại có dự tính từ trước, thì người chuẩn bị phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Về nguyên tắc không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng. Điều luật không nói rõ chuẩn bị phạm tội có áp dụng với tội cố ý, vô ý hay không. Nhưng thực tiễn xét xử Việt Nam thừa nhận chuẩn bị phạm tội chỉ áp dụng với các trường hợp phạm tội cố ý, trực tiếp. Lỗi cố ý gián tiếp, vô ý không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Mặt khác, khi dấu hiệu lỗi không được quy định trong điều luật thì phải hiểu điều luật quy định cho lỗi cố ý.
Chuẩn bị phạm tôi được quy định tại Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015 gồm 03 khoản với nội dung như sau:
Khoản 1 Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015 các nhà làm luật đưa ra khái niệm chuẩn bị phạm tội. Theo đó chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm. Đây là những điều kiện cần, chuẩn bị cho hành vi phạm tội được diễn ra. Bộ luật hình sự 2015 đã thêm quy định “thành lập, tham gia nhóm tội phạm” là hành vi tạo điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm.
Hành vi chuẩn bị phạm tội được đánh giá và phân biệt thành 02 loại, cụ thể: Loại hành vi chuẩn bị phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và loại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc dù cả hai loại đều chưa gây ra hậu quả, nhưng tính chất nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội có khác nhau và sự khác nhau đó lại không phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi chuẩn bị mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm mà người đó định thực hiện. Về lý luận thì chỉ có tội phạm được thực hiện do cố ý (cố ý trực tiếp) thì mới có giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do đó, sẽ không có hành vi chuẩn bị phạm tội mà tội phạm đó sẽ được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp hoặc do lỗi vô ý.
Khoản 2 Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người chuẩn bị phạm tôi phải chịu trách nhiệm hình sự trong các trường hợp quy định tại cac điều: 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật Hình sự. Chuẩn bị phạm tội là trường hợp chưa thực hiện tội phạm nhưng với tính chất là hành vi tại điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm, việc hành vi phạm tội có xảy ra hay khôn phụ thuộc rất lớn vào hành vi chuẩn bị. Do vậy hành vi phạm tội có tính nguy hiểm cho xã hội và cần chịu trách nhiệm hình sự.
Khoản 3 Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với giai đoạn chuẩn bị của hai tội phạm quy định tại Tội giết người (Điều 123) và Tội cướp tài sản (Điều 168). Như vậy, đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên chuẩn bị phạm tội sẽ áp dụng theo khoản 2 Điều 14.
Cần chú ý: Nếu hành vi chuẩn bị phạm tội đã cấu thành một tội độc lập khác thì ngoài tội chuẩn bị thực hiện được quy định phải chịu trách nhiệm hình sự, người có hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập đó. Ví dụ: lấy trộm súng quân dụng (chiếm đoạt vũ khí quân dụng) đề chuẩn bị phạm tội giết người thì người phạm tội không chỉ chịu trách nhiệm hình sự về giết người ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội mà còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng.
Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội:
Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể.
Việc quy định khung hình phạt nhẹ hơn và riêng cho trường hợp chuẩn bị phạm tội thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự giữa hành vi phạm tội hoàn thành và hành vi phạm tội chưa hoàn thành trong Bộ luật Hình sự hiện hành so với các Bộ luật Hình sự cũ. Bởi căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, bản chất của tội phạm là thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và giờ Tòa án sẽ quyết định một hình phạt thích đáng với hành vi nguy hiểm cho xã hội đó, do mức độ và tính chất nguy hiểm cho xã hội của trường hợp chuẩn bị phạm tội nhẹ hơn nhiều tính chất, mức độ của tội phạm đã hoàn thành.
Điều 14. Chuẩn bị phạm tội
1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.
2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338