Áp dụng tình tiết “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” khi nào?
Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án Nhân dân Tối cao thì “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được hiểu là trường hợp người phạm tội thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối lỗi về việc mình đã gây ra.
Người phạm tội thành khẩn khai báo là không khai gian dối bất cứ một điều gì liên quan đến hành vi phạm tội của mình cũng như của người khác. Tình tiết này cũng là một dạng tự thú, nhưng ở mức độ thấp hơn. Tình tiết chỉ xảy ra khi người phạm tội đã bị phát hiện. Trong quá trình làm rõ các tình tiết của vụ án thì hành vi này giúp các cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng làm sáng tỏ các hành vi vi phạm nhằm kết thúc sớm vụ án, xử đúng người, đúng tội. Theo quy định của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội khai báo không thành khẩn sẽ không thuộc các tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự, bởi lẽ, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nhưng khi người phạm tội thành khẩn khai báo thì pháp luật lại quy định đó là một tình tiết giảm nhẹ bởi vì quy định như vậy nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của nhà nước cũng như giúp các cơ quan có thẩm quyền tố tụng phát hiện tội phạm sớm hơn.
Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào sự thành khẩn của người phạm tội ở giai đoạn tố tụng nào và ý nghĩa thiết thực của lời khai thành khẩn đó với việc xác định hành vi phạm tội của họ cũng như của các đồng phạm (nếu vụ án có đồng phạm).
Người phạm tội ăn năn hối cải, là trường hợp sau khi phạm tội, người phạm tội cảm thấy bị cắn rứt, giày vò lương tâm về những việc làm của mình; hối hận và muốn sửa chữa lỗi lầm. Người phạm tội ăn năn hối cải không chỉ được thể hiện bằng lời nói mà bằng những hành động tích cực chấp hành pháp luật, gương mẫu trong mọi lĩnh vực của đời sống, hối hận với hành vi phạm tội của mình, có thái độ tích cực trong việc khắc phục những hậu quả do hành vi của mình gây ra.
Khi xác định tình tiết này, các cơ quan tiến hành tố tụng phải phối hợp với các cơ quan nhà nước khác, tổ chức xã hội, các đoàn thể quần chúng đang quản lý người phạm tội để xác nhận thái độ của họ sau khi phạm tội. Tuy nhiên, cũng cần đề phòng trường hợp người phạm tội giả vờ ăn năn hối cái để được khoan hồng rồi tiếp tục phạm tội.
Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ ăn năn hối cải của người phạm tội, những thành tích mà người phạm tội đã đạt được, thành tích càng nhiều, lập công lớn thì mức đố giảm nhẹ càng nhiều.
Công văn số 174/TANDTC-PC ngày 31/8/2023 của Toà án nhân dân tối cao về việc áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được hiểu là trường hợp người phạm tội thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội, ăn năn hối lỗi về việc mình đã gây ra; tình tiết “thành khẩn khai báo”, “ăn năn hối cải” không phải là hai tình tiết độc lập. Do đó, nếu người phạm tội “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” thì chỉ được coi là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Nếu có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và đảm bảo trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Theo đó:
- Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
- Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2, Điều 51 nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Liên hệ tư vấn và mời luật sư: 0936683699 - 0983951338